Scholar Hub/Chủ đề/#rối loạn lipid máu/
Rối loạn lipid máu là tình trạng mất cân bằng trong hệ thống lipid trong cơ thể, gồm các chất béo như cholesterol và triglyceride. Tình trạng này bao gồm sự tăn...
Rối loạn lipid máu là tình trạng mất cân bằng trong hệ thống lipid trong cơ thể, gồm các chất béo như cholesterol và triglyceride. Tình trạng này bao gồm sự tăng cao của cholesterol xấu (LDL cholesterol) và triglyceride, cũng như giảm cholesterol tốt (HDL cholesterol) trong máu. Rối loạn lipid máu có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe như tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và đột quỵ. Nguyên nhân của rối loạn lipid máu thường liên quan đến cách sống, di truyền, cơ địa, cũng như một số rối loạn chuyển hóa. Để điều trị rối loạn lipid máu, thường cần sử dụng chế độ ăn uống lành mạnh, thay đổi lối sống, và đôi khi cần dùng thuốc.
Rối loạn lipid máu bao gồm nhiều loại, phổ biến nhất là tăng cholesterol xấu (LDL cholesterol) và triglyceride, cũng như giảm cholesterol tốt (HDL cholesterol) trong máu. Đây là một vấn đề quan trọng trong sức khỏe tim mạch, vì mỡ tích tụ trong mạch máu có thể hình thành các cặn bã và tụ huyết khối, gây tắc nghẽn và suy dinh dưỡng đến mạch máu, dẫn đến các biến chứng như đau ngực, nhồi máu cơ tim và đột quỵ.
Nguyên nhân của rối loạn lipid máu có thể bao gồm:
1. Di truyền: Yếu tố di truyền có thể góp phần vào tăng cholesterol xấu và triglyceride trong máu, khi các gen liên quan đến quá trình chuyển hóa lipid bị thay đổi.
2. Chế độ ăn uống: Một chế độ ăn uống giàu calorie, tăng tiêu thụ chất béo, đặc biệt là chất béo bão hòa và trans fat (thường tìm thấy trong thực phẩm như thịt đỏ, phô mai, bơ, bánh mỳ và bánh quy) có thể góp phần vào tăng các loại lipid xấu trong máu. Không đủ vi chất, các chất chống oxi hóa, và chất xơ trong chế độ ăn cũng có thể ảnh hưởng đến lipid máu.
3. Bệnh lý và yếu tố khác: Một số bệnh lý như tiểu đường, béo phì, bệnh thận mạn tính, bệnh gan nhiễm mỡ, hội chứng cánh tay hoàng bản, và một số bệnh lý nội tiết khác có thể gây rối loạn lipid máu. Bên cạnh đó, tuổi tác, giới tính, stress, hút thuốc lá, uống rượu, và không vận động cũng là những yếu tố tăng nguy cơ cho rối loạn lipid máu.
Để quản lý rối loạn lipid máu, các biện pháp bao gồm:
1. Chế độ ăn uống: Tăng tiêu thụ các loại thực phẩm giàu chất xơ, chất chống oxi hóa (như rau xanh, trái cây, hạt, ngũ cốc nguyên hạt) và các loại chất béo tốt (như omega-3, chất béo không bão hòa từ các nguồn thực vật). Hạn chế tiêu thụ chất béo bão hòa và trans fat. Một chế độ ăn uống hợp lý kết hợp với giảm nồng độ natri trong khẩu phần hàng ngày cũng hỗ trợ giảm lipid máu.
2. Thay đổi lối sống: Đề cao việc vận động thường xuyên, ít nhất 30 phút mỗi ngày, như tập thể dục, đi bộ, chạy, bơi hoặc bất kỳ hoạt động nào tăng nhịp tim. Từ bỏ hút thuốc lá và giới hạn uống rượu. Kiểm soát cân nặng và giảm stress.
3. Thuốc: Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể kê đơn thuốc giúp điều chỉnh lipid máu. Các loại thuốc trong điều trị rối loạn lipid máu bao gồm statin, fibrat, niacin và axit omega-3. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc thường được áp dụng cho những trường hợp có nguy cơ cao hoặc khi các phương pháp không dược đạt hiệu quả mong muốn.
Rối loạn lipid máu là một tình trạng cần được chú ý và điều trị để giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và đột quỵ. Điều quan trọng là tuân thủ chế độ ăn uống lành mạnh, thường xuyên vận động và thường xuyên kiểm tra sức khỏe để theo dõi và điều chỉnh mức lipid máu.
Béo phì và các biến chứng chuyển hóa: Vai trò của Adipokine và mối quan hệ giữa béo phì, viêm, kháng insulin, rối loạn lipid máu và bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu Dịch bởi AI International Journal of Molecular Sciences - Tập 15 Số 4 - Trang 6184-6223
Các bằng chứng tích lũy cho thấy béo phì có mối liên hệ chặt chẽ với việc tăng nguy cơ mắc các bệnh chuyển hóa như kháng insulin, tiểu đường loại 2, rối loạn lipid máu và bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Béo phì là kết quả của sự mất cân bằng giữa lượng thức ăn tiêu thụ và mức năng lượng tiêu thụ, dẫn đến sự tích tụ quá mức của mô mỡ. Nay, mô mỡ được công nhận không chỉ là nơi lưu trữ năng lượng dư thừa từ thức ăn tiêu thụ, mà còn là một cơ quan nội tiết. Sự mở rộng của mô mỡ sản sinh ra nhiều chất sinh học hoạt động, gọi là adipocytokine hoặc adipokine, gây viêm mãn tính nhẹ và tác động đến nhiều quá trình trong nhiều cơ quan khác nhau. Mặc dù các cơ chế chính xác vẫn chưa rõ ràng, sản xuất hay tiết ra các adipokine này không được điều chỉnh do mô mỡ dư thừa và rối loạn chức năng mô mỡ có thể dẫn tới sự phát triển của các bệnh chuyển hóa liên quan đến béo phì. Trong bài đánh giá này, chúng tôi tập trung vào vai trò của một số adipokine liên quan đến béo phì và tác động tiềm tàng đến các bệnh chuyển hóa liên quan đến béo phì. Nhiều bằng chứng cung cấp những hiểu biết quý giá về vai trò của adipokine trong việc phát triển béo phì và các biến chứng chuyển hóa của nó. Cần thêm nhiều nghiên cứu để hiểu rõ đầy đủ các cơ chế đằng sau các hoạt động chuyển hóa của một số adipokine mới được xác định.
#béo phì #adipokine #kháng insulin #rối loạn lipid máu #viêm #bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu #chuyển hóa #bệnh chuyển hóa liên quan đến béo phì #mô mỡ #adipocytokine
Quá sản xuất lipoprotein rất thấp mật độ là đặc điểm nổi bật của rối loạn lipid máu trong hội chứng chuyển hóa Dịch bởi AI Arteriosclerosis, Thrombosis, and Vascular Biology - Tập 28 Số 7 - Trang 1225-1236 - 2008
Kháng insulin là một đặc điểm chính của hội chứng chuyển hóa và thường tiến triển thành bệnh tiểu đường type 2. Cả kháng insulin và tiểu đường type 2 đều được đặc trưng bởi rối loạn lipid máu, đây là một yếu tố nguy cơ quan trọng và phổ biến đối với bệnh tim mạch. Rối loạn lipid máu trong tiểu đường là một cụm bất thường về lipid và lipoprotein có khả năng gây xơ vữa, có mối quan hệ chuyển hóa với nhau. Bằng chứng gần đây cho thấy một khuyết tật cơ bản là quá sản xuất các hạt lipoprotein có mật độ rất thấp lớn (VLDL), khởi đầu cho một loạt thay đổi lipoprotein, dẫn đến mức cao hơn của các phần tử dư thừa, LDL nhỏ hơn, và mức cholesterol lipoprotein mật độ cao (HDL) thấp hơn. Những bất thường lipid có khả năng gây xơ vữa này có trước khi được chẩn đoán tiểu đường type 2 vài năm, do đó việc làm rõ các cơ chế liên quan đến quá sản xuất các hạt VLDL lớn là quan trọng. Ở đây, chúng tôi điểm qua sinh lý bệnh của sinh tổng hợp và chuyển hóa VLDL trong hội chứng chuyển hóa. Chúng tôi cũng điểm lại các nghiên cứu gần đây điều tra mối quan hệ giữa tích lũy lipid trong gan và kháng insulin, và nguồn cung cấp acid béo cho chất béo gan và sinh tổng hợp VLDL. Cuối cùng, chúng tôi cũng thảo luận ngắn gọn về các phương pháp điều trị hiện tại để quản lý lipid trong trường hợp rối loạn lipid máu và các mục tiêu điều trị tiềm năng trong tương lai.
#kháng insulin #tiểu đường type 2 #rối loạn lipid máu #hội chứng chuyển hóa #lipoprotein rất thấp mật độ #sinh tổng hợp và chuyển hóa VLDL #xơ vữa #acid béo #điều trị
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) và sự kết nối với kháng insulin, rối loạn lipid máu, xơ vữa động mạch và bệnh mạch vành Dịch bởi AI Nutrients - Tập 5 Số 5 - Trang 1544-1560
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu được đánh dấu bởi sự tích lũy mỡ trong gan không do sử dụng rượu quá mức. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng NAFLD có liên hệ với kháng insulin, dẫn đến sự kháng cự đối với tác dụng chống phân giải lipid của insulin trong mô mỡ với sự gia tăng axit béo tự do (FFAs). Sự gia tăng FFAs gây ra rối loạn chức năng ty thể và phát triển độc tố lipid. Hơn nữa, ở các đối tượng mắc NAFLD, mỡ lạc chỗ cũng tích lũy dưới dạng mỡ tim và mỡ tuyến tụy. Trong bài đánh giá này, chúng tôi đã phân tích các cơ chế liên kết NAFLD với hội chứng chuyển hóa và rối loạn lipid máu và mối liên hệ của nó với sự phát triển và tiến triển của bệnh tim mạch.
Hiệu quả của rosuvastatin trong điều trị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu kèm theo rối loạn lipid máu: Nghiên cứu thí điểm, công khai Dịch bởi AI Hepatology Research - Tập 42 Số 11 - Trang 1065-1072 - 2012
Mục tiêu: Statin, một chất ức chế 3‐hydroxy‐3‐methylglutaryl‐coenzyme A (HMG‐CoA) reductase, được báo cáo có ích trong việc điều trị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH). Hiện nay, chưa có liệu pháp đã được chứng minh cho NASH. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã đánh giá hiệu quả của rosuvastatin ở bệnh nhân NASH có rối loạn lipid máu.
Phương pháp: Mười chín bệnh nhân có chẩn đoán sinh thiết NASH và rối loạn lipid máu đã đồng ý tham gia nghiên cứu tiến triển này được chọn lựa. Các bệnh nhân đã được điều trị trong 24 tháng với liều 2.5 mg/ngày rosuvastatin. Những thay đổi lâm sàng và mô học được đánh giá so sánh trước và sau điều trị. Hướng dẫn giảm cân tiêu chuẩn được tiếp tục trong thời gian điều trị. Sinh thiết gan theo dõi được thực hiện trên chín bệnh nhân.
Kết quả: Hai mươi sáu phần trăm bệnh nhân mắc rối loạn lipid máu loại IIa và 74% mắc rối loạn lipid máu loại IIb tại thời điểm ban đầu. Chỉ số khối cơ thể trung bình không thay đổi đáng kể trong quá trình điều trị. Mức độ transaminase tương đối thấp từ đầu và không thay đổi đáng kể trong cả quá trình điều trị. Hồ sơ lipid cải thiện đáng kể sau 24 tháng điều trị với rosuvastatin. Trong khi điểm hoạt tính bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và giai đoạn xơ hóa không thay đổi đáng kể ở tất cả bệnh nhân, tỷ lệ cải thiện đạt 33,3% ở bệnh nhân cá nhân và duy trì ổn định ở 33,3% và 55,6% tương ứng.
Kết luận: Các tham số chuyển hóa liên quan đến NASH cải thiện với liệu pháp bao gồm cả mô học ở một số bệnh nhân. Tuy nhiên, một trong số chín bệnh nhân có tình trạng xơ hóa tiến triển trong suốt quá trình điều trị. Nghiên cứu thí điểm của chúng tôi cho thấy hiệu quả của rosuvastatin trong điều trị NASH kèm rối loạn lipid máu, ngay cả khi transaminase không tăng cao và thử nghiệm kiểm soát cần thiết trong tương lai.
#Rosuvastatin #Viêm gan nhiễm mỡ không do rượu #Rối loạn lipid máu #Nghiên cứu thí điểm #Sinh thiết mô học
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN LIPID MÁU Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI CHẠY THẬN NHÂN TẠO CHU KỲBệnh thận mạn là vấn đề sức khỏe toàn cầu với tỷ lệ mắc bệnh ngày càng tăng. Rối loạn lipid máu là vấn đề thường gặp ở bệnh nhân bênh thận mạn, nó làm tăng nguy cơ tai biến tim mạch ở bệnh nhân bệnh thận mạn. Kiểm soát rối loạn lipid máu và các yếu tố liên quan đến rối loạn lipid máu là một trong những mục tiêu điều trị cho bệnh nhân bệnh thận mạn. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu mối liên quan giữa rối loạn lipid máu với thời gian lọc máu, nguyên nhân của bệnh thận mạn, tăng huyết áp, hemoglobin máu, protein máu toàn phần và albumin huyết thanh ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối chạy thận nhân tạo chu kỳ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Tiến hành nghiên cứu trên 60 bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối chạy thận nhân tạo chu kỳ tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An. Kết quả nghiên cứu: (1) Nồng độ trung bình cholesterol máu toàn phần, TG, HDL - C, LDL - C, chỉ số TC/HDL - C, LDL/HDL - C khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh thận mạn chạy thận dưới 1 năm và trên 1 năm, giữa các nhóm nguyên nhân của bệnh thận mạn, giữa nhóm không tăng huyết áp và nhóm tăng huyết áp; (2) Nồng độ trung bình của triglycerid ở nhóm bệnh thận mạn có nồng độ hemoglobin < 90g/l cao hơn so với nhóm có nồng độ hemoglobin ≥ 90g/l; (3) Nồng độ trung bình của cholesterol ở nhóm có nồng độ protein < 65g/l cao hơn so với nhóm có nồng độ protein ≥ 65g/l; (4) Nồng độ trung bình cholesterol ở nhóm có nồng độ albumin < 35g/l cao hơn so với nhóm có nồng độ albumin ≥ 35 g/l với p <0,05.
#Rối loạn lipid máu #bệnh thận mạn
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ KIỂM SOÁT LDL-C TRONG SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN LIPID MÁU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI CẦN THƠMục tiêu: đánh giá kết quả kiểm soát LDL-C trong sử dụng thuốc điều trị rối loạn lipid máu và một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị. Phương pháp: mô tả cắt ngang trên 222 bệnh nhân điều trị tại phòng khám ngoại trú của một bệnh viện tại Cần Thơ từ 01/4/2021-30/4/2022. Kết quả: tỷ lệ bệnh nhân đạt mục tiêu điều trị là 20,7%, tỷ lệ bệnh nhân chưa đạt mục tiêu điều trị chiếm 79,3%. Bệnh nhân có nguy cơ tim mạch thấp hơn có tỷ lệ đạt mục tiêu điều trị là 30,6%; cao hơn so với bệnh nhân có nguy cơ tim mạch rất cao là 16,2% (OR = 3,778; 95%CI = 1,336 – 10,682; p = 0,012). Cứ tăng 1 tuổi thì bệnh nhân đạt mục tiêu điều trị tăng 1,076 lần (OR = 1,076; 95%CI = 1,018 – 1,136; p = 0,009). Kết luận: tỷ lệ bệnh nhân đạt LDL-C mục tiêu trong nghiên cứu còn thấp, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa yếu tố tuổi, nguy cơ tim mạch của bệnh nhân và kết quả đạt mục tiêu điều trị LDL-C.
#LDL-C #rối loạn lipid máu #thuốc điều trị rối loạn lipid máu #bệnh nhân ngoại trú.
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 CÓ RỐI LOẠN LIPID MÁU ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN LẦN ĐẦUNghiên cứu nhằm tìm câu trả lời về tình trạng kháng insulin ở các đối tượng đái tháo đường týp 2 có rối loạn lipid máu tại Việt Nam để đề ra cách kiểm soát, điều trị bệnh tốt hơn. Đề tài tiến hành lựa chọn 163 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 được chẩn đoán lần đầu trong đó có 95 (58%) bệnh nhân có rối loạn lipid máu, nhóm chứng gồm 53 người bình thường. Thu thập số liệu thông qua khám lâm sàng, xét nghiệm lipid máu, insulin, C-peptid. Kết quả cho thấy: tuổi trung bình của người đái tháo đường được chẩn đoán lần đầu là 53,8±12,2 (nữ là 53,0±13,6, nam là 54,6±10,7); ngay thời điểm phát hiện đã có 58% rối loạn lipid máu. Nhóm đái tháo đường không RLLM có chỉ số insulin, C-peptid, TC, TG, LDL-C thấp hơn nhóm ĐTĐ có RLLM. Như vậy, ở các đối tượng đái tháo đường có rối loạn lipid máu có hiện tượng kháng insulin do vậy cần phải xem xét đến đặc điểm này trong quá trình điều trị.
#đái tháo đường týp 2 #rối loạn lipid máu #kháng insulin
ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN CÁC THÀNH PHẦN LIPID MÁU Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2Rối loạn các thành phần lipid và lipoprotein là nguyên nhân chính dẫn đến xơ vữa động mạch và các bệnh tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2.
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm rối các thành phần lipid và mối liên quan với một số yếu tố ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 105 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 điều trị tại Khoa nội tiết – đái tháo đường, Bệnh viện hữu nghị đa khoa Nghệ An, thời gian từ tháng 01/2021 – 06/2021.
Kết quả: Tỷ lệ rối loạn lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 là 86,7%. Tỷ lệ tăng cholesterol (TC), triglyceride (TG), LDL – cholesterol (LDL – C) lần lượt là 26,7%; 61,9%; 64,8% và tỷ lệ giảm HDL – cholesterol (HDL – C) là 47,6%. Tỷ lệ rối loạn 2 thành phần là 25,7%; rối loạn 3 thành phần là 23,8% và 13,3% có rối loạn 4 thành phần lipid máu. Có mối tương quan thuận có ý nghĩa thống kê giữa vòng bụng với TC (r = 0,289; p < 0,05) và TG (r = 0,238; p < 0,05). Có mối tương quan thuận giữa HbA1c với TC (r = 0,246; p < 0,05), TG (r = 0,297; p < 0,05) và tương quan nghịch có ý nghĩa thống kê giữa HbA1c với HDL – C (r = - 0,2; p < 0,05). Kết luận: Tỷ lệ rối loạn lipid máu gặp ở đa số bệnh nhân đái tháo đường tý p 2. Do đó sàng lọc, điều trị rối loạn lipid máu là cần thiết để dự phòng biến chứng tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường.
#Lipid #HbA1c #Đái tháo đường týp 2
NGHIÊN CỨU TÍNH HỢP LÝ TRONG VIỆC SỬ DỤNG THUỐC STATIN TRÊN BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP CÓ RỐI LOẠN LIPID MÁU ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN ĐÔNG HẢI TỈNH BẠC LIÊU NĂM 2021-2022Đặt vấn đề: Tăng huyết áp ngày càng gia tăng và gây gánh nặng lớn cho hệ thống y tế. Trong các giải pháp kiểm soát tình trạng tăng huyết áp, việc điều chỉnh lipid máu để giảm tần suất rối loạn lipid máu là hết sức cần thiết, trong đó statin là thuốc được lựa chọn hàng đầu. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc statin chưa hợp lý có thể dẫn đến giảm hiệu quả điều trị, đồng thời gia tăng các trường hợp phản ứng có hại của thuốc và sai sót trong sử dụng thuốc. Mục tiêu: Đánh giá tính hợp lý trong việc sử dụng thuốc statin và xác định một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng thuốc statin chưa hợp lý trên bệnh nhân tăng huyết áp có rối loạn lipid máu điều trị ngoại trú tại Trung tâm y tế huyện Đông Hải năm 2021-2022. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện trên 195 đơn thuốc của bệnh nhân được chẩn đoán tăng huyết áp mắc kèm rối loạn lipid máu điều trị ngoại trú tại Trung tâm Y tế huyện Đông Hải từ 01/05/2021 – 28/02/2022. Kết quả: Tỷ lệ sử dụng atorvastatin chiếm tỷ lệ cao nhất với 72,3%, tỷ lệ sử dụng pravastatin là 20,5%, thấp nhấp là fluvastatin chiếm tỷ lệ 7,2%. Tỷ lệ hợp lý chung là 62,1%. Trong đó, tỷ lệ liều dùng, chỉ định thuốc, thời điểm dùng, số lần dùng và tương tác thuốchợp lý lần lượt là 70,3%, 93,3%, 98,5%, 99,5% và 99,5%. Không ghi nhận trường hợp chống chỉ định sử dụng statin. Bác sĩ có trình độ sau đại học có tỷ lệ kê đơn statin hợp lý cao hơn gấp hơn 3,13 lần so với bác sĩ có trình độ đại học (p<0,001); bệnh nhân có từ 3 bệnh mắc kèm trở xuống có tỷ lệ kê đơn statin hợp lý cao gấp 10,52 lần so với bệnh nhân có trên 3 bệnh mắc kèm (p<0,001); số thuốc trong đơn từ 5 thuốc trở xuống có tỷ lệ kê đơn statin hợp lý cao gấp gần 3,89 lần so với đơn thuốc có trên 5 thuốc (p<0,001). Kết luận: Các kết quả nghiên cứu cho thấy cần khảo sát ghi nhận các vấn đề chưa hợp lý trong kê đơn statin để làm cơ sở xây dựng hiệu quả chương trình tập huấn sử dụng statin.
#Statin #rối loạn lipid #tăng huyết áp
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN LIPID MÁU TRÊN BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2021-2022Đặt vấn đề: Điều trị rối loạn lipid máu đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa nguyên phát và thứ phát của bệnh mạch máu do xơ vữa động mạch, đặc biệt là bệnh động mạch vành. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định đặc điểm sử dụng thuốc và đánh giá tính hợp lý trong sử dụng thuốc điều trị rối loạn lipid máu trên bệnh nhân điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ năm 2021-2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 222 bệnh nhân điều trị tại phòng khám ngoại trú của bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ từ 01/4/2021-30/4/2022. Cơ sở đánh giá tính hợp lý dựa trên khuyến cáo của Hội tim mạch học quốc gia Việt Nam 2015 và ESC/EAS 2019. Dữ liệu được thu thập từ bệnh nhân ngoại trú và phỏng vấn bệnh nhân. Kết quả: Nhóm statin được sử dụng nhiều nhất với tỷ lệ 95,5%; statin cường độ trung bình chiếm ưu thế với 77,5%, trong đó rosuvastatin 10 mg (33,2%), rosuvastatin 5mg (23,1%), atorvastatin 10mg (18,2%). Tỷ lệ phác đồ đơn trị và đa trị lần lượt là 99,5% và 0,5%. Tỷ lệ quyết định khởi đầu điều trị bằng thuốc hợp lý là 94,6%; lựa chọn thuốc khởi đầu điều trị hợp lý 42,9%; liều khởi đầu theo chức năng gan hợp lý 99,5%; liều khởi đầu theo chức năng thận hợp lý 97,7%; tương tác thuốc bất lợi trong đơn hợp lý 78,4%. Tỷ lệ sử dụng thuốc điều trị rối loạn lipid máu hợp lý chung là 33,6%. Kết luận: Phác đồ statin được ưu tiên lựa chọn trong điều trị rối loạn lipid máu, tuy nhiên tỷ lệ sử dụng thuốc hợp lý còn thấp, do đó các bác sĩ nên cập nhật thêm các khuyến cáo điều trị hiện tại, cá thể hóa từng bệnh nhân để có thể lựa chọn thuốc điều trị hợp lý.
#Sử dụng thuốc hợp lý #rối loạn lipid máu #bệnh nhân ngoại trú